Tài liệu: Đào tạo theo tiêu chuẩn VTOS - Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

Ngành Du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế cho phát triển nhân lực.
10-5-20193-w500-6272-155770738-3520-6508-1563963686-1669460337.png
 

Trước bối cảnh Cộng đồng kinh tế ASEAN đã chính thức ra đời vào cuối năm 2015, ngành Du lịch Việt Nam đang gặp những thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó có yếu tố về nhân lực. Nhân lực ngành Du lịch có vai trò quyết định không chỉ cho riêng sự phát triển du lịch mà còn góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của đất nước.

Nhiều năm qua, ngành Du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế cho phát triển nhân lực. Công tác phát triển nhân lực ngành Du lịch mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Đặt vấn đề

Vấn đề phát triển nhân lực, đặc biệt nhân lực có chất lượng cao đang là thách thức đối với du lịch Việt Nam trước yêu cầu của tình hình mới. Đây cũng là vấn đề đặt ra trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm du lịch Việt Nam một cách bền vững. Trong khuôn khổ diễn đàn ATF, so với các nước trong khu vực, thì chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam nói chung và tại các trung tâm du lịch lớn vẫn còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng đó, theo ý kiến chung của nhiều chuyên gia là do nhân lực du lịch của chúng ta hiện nay vừa thiếu về số lượng lại vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, do đó dẫn đến chất lượng dịch vụ du lịch của nước ta còn thấp. Để tạo ra sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh cao thì chất lượng của nguồn nhân lực du lịch đóng vai trò hết sức quan trọng. Chỉ có chiến lược phát triển nguồn nhân lực được quan tâm đúng mức và hợp lý mới duy trì được thương hiệu và chất lượng phục vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh thỏa thuận MRA-TP cho phép dịch chuyển lao động trong ngành du lịch thuộc khối ASEAN. Một người lao động tại Việt Nam có thể làm việc tại các nước thành viên ASEAN, trong khi đó, Việt Nam cũng có thể thu hút các lao động có trình độ để đáp ứng được các vị trí đòi hỏi trình độ cao đang bị thiếu hụt nhân lực.

Ngày 09 tháng 8 năm 2016, tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì Hội nghị toàn quốc về phát triển du lịch. Tại Hội nghị này, Thủ tướng đã quan tâm đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực du lịch và giao nhiệm vụ: 1) Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội khẩn trương ban hành khung trình độ nghề quốc gia trong lĩnh vực du lịch; công nhận bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia về du lịch và thực hiện Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN); 2) Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chủ trì phối hợp với các bộ, ngành, địa phương đánh giá tổng thể và dự báo nhu cầu nhân lực các lĩnh vực trong ngành du lịch, khả năng đáp ứng của các cơ sở đào tạo; có biện pháp bổ sung kịp thời số lượng, đảm bảo chất lượng hướng dẫn viên, thuyết minh viên phục vụ khách du lịch, nhất là các địa bàn trọng điểm thu hút nhiều khách quốc tế và hướng dẫn viên các ngoại ngữ hiếm; tăng cường giáo dục lý luận chính trị, nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng kiến thức về lịch sử, văn hoá, ngoại ngữ cho hướng dẫn viên du lịch.

Để thực hiện mục tiêu đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển bền vững và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế – xã hội đòi hỏi cần phải có những chính sách đột phá, các giải pháp tổng thể nhằm xử lý ngay những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện cho phát triển du lịch, trong đó không thể không nhắc đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tại Hội thảo này, chúng tôi đưa ra khuyến nghị đào tạo theo tiêu chuẩn VTOS – giải pháp đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập quốc tế.

Nhân lực du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập ASEAN

2.1. Du lịch Việt Nam trong bối cảnh gia nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN

Theo các số liệu được công bố trong bản Báo cáo năng lực cạnh tranh du lịch năm 2015 của 141 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, Việt Nam có chỉ số về các nguồn lực tự nhiên và văn hóa khá cao, đứng thứ 33 (trong đó nguồn lực tự nhiên đứng vị trí 40, nguồn lực văn hóa đứng thứ 33). Nếu so với các nước trong khu vực ASEAN, Việt Nam cũng đứng trong tốp 4 nước hàng đầu, sau Indonesia (17), Thái Lan (21) và Malaysia (24). Nhìn chung, với lợi thế về vị trí địa lý và tài nguyên du lịch phong phú cả tự nhiên và nhân văn nên Việt Nam có điều kiện tham gia và cung ứng tất cả các loại hình sản phẩm du lịch chung ASEAN, góp phần đa dạng hóa các sản phẩm du lịch Việt Nam hiện nay và tranh thủ được các nguồn khách nối tour trong khu vực. Ngược lại, với những sản phẩm du lịch đặc thù hoặc có tiềm năng lớn của Việt Nam như du lịch thăm lại chiến trường xưa, du lịch thám hiểm hang động sẽ góp phần tăng thêm sức hấp dẫn của du lịch khu vực ASEAN nói chung và khả năng kết nối khách giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và ngược lại. Đánh giá một cách tổng quan có thể thấy các sản phẩm du lịch của Việt Nam có sức cạnh tranh khá cao so với nhiều nước trong khu vực ASEAN nếu xét trên các yếu tố đa dạng về tài nguyên du lịch, mức độ hấp dẫn của cảnh quan thiên nhiên, giá trị văn hóa, lịch sử và các di sản. Các yếu tố khác về con người và tổ chức thực hiện sản phẩm ở mức độ trung bình khá trong khu vực.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng vẫn đang trong quá trình khắc phục suy thoái, tái cấu trúc và từng bước tìm kiếm động lực tăng trưởng mới, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức nhưng ngành Du lịch Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi và tăng trưởng khá. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khách quốc tế đến Việt Nam năm 2015 đạt 7.943.651 lượt khách, tăng nhẹ ở mức 0,9% so với năm 2014. Khách du lịch nội địa trong năm 2015 đạt 57 triệu lượt khách, trong đó khách lưu trú đạt 29,6 triệu lượt. Tổng thu từ khách du lịch đạt 337.830 tỷ đồng, tăng 6,2% so với năm 2014. Để có được kết quả đón khách quốc tế như trên là một cố gắng rất lớn của ngành Du lịch, với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch và sự vào cuộc quyết liệt của các bộ, ngành, địa phương nhằm triển khai Nghị quyết 92/NQ-CP của Chính phủ và Chỉ thị 14/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các Nghị quyết của Chính phủ về miễn visa có thời hạn cho một số thị trường quan trọng của du lịch Việt Nam…

Có thể khẳng định, trong giai đoạn vừa qua, ngành Du lịch đã trải qua một bước dài tăng trưởng với sự mở rộng quy mô, lớn mạnh tiềm lực về cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ du lịch; hệ thống hạ tầng gắn với quy hoạch và đầu tư phát triển các khu, tuyến, điểm, đô thị du lịch trên 7 vùng du lịch của cả nước; hệ thống doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực lữ hành, lưu trú, vận chuyển, giải trí… với chuỗi các sản phẩm du lịch đa dạng hướng tới nhiều thị trường mới, đồng thời với lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp được tăng cường cả về số lượng và trình độ chuyên nghiệp… Những thành tựu đó đã đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển ngành Du lịch trước thềm hội nhập và phát triển của thời kỳ mới. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy thực trạng phát triển du lịch Việt Nam những năm qua vẫn còn nhiều hạn chế và chưa phát huy đúng với tiềm năng và nguồn lực vốn có, chưa thể hiện được đẳng cấp chất lượng, hiệu quả, tính bền vững, thương hiệu và sức cạnh tranh.

2.2. Thực trạng nhân lực du lịch Việt Nam

a) Về ưu điểm:Số lượng nhân lực ngành Du lịch có xu hướng tăng, phản ánh vai trò ngày càng tăng của Ngành và tính hiệu quả của công tác xã hộihóa hoạt động du lịch. Nhìn chung, nhân lực ngành Du lịch được rèn luyện, thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng; năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, nỗ lực vươn lên thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới và phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; có ý thức trách nhiệm, nhiệt tình và tâm huyết với nghề nghiệp, gắn bó với cơ quan, đơn vị, với ngành và đất nước. Đã đóng góp vào thành tựu xây dựng phát triển Ngành trong 50 năm qua; bước đầu xây dựng được thương hiệu Du lịch Việt Nam và những sản phẩm du lịch mang lại giá trị mới cho đất nước và xã hội. Trình độ kiến thức, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý nhà nước, nghiên cứu, đào tạo, quản trị kinh doanh ngày một nâng cao. Số đông được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn, có vốn sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khăn của đời sống vẫn kiên định, giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, có lối sống lành mạnh. Bên cạnh những cán bộ công tác lâu năm, có nhiều cống hiến và những nhà khoa học, chuyên gia, nghệ nhân tuy tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo và cống hiến, đã xuất hiện những lao động trẻ, được đào tạo cơ bản, năng động, tự tin, dám nghĩ, dám làm, trình độ nhiều mặt và năng lực, cống hiến ngày một nâng cao, cố gắng tìm tòi cái mới, hoàn thành tốt nhiệm vụ, tiếp thu nhanh kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp.
b) Về hạn chế:Nhân lực ngành Du lịch còn nhiều mặt chưa đáp ứng nhiệm vụ phát triển du lịch khi hội nhập quốc tế ngày một sâu, toàn diện và yêu cầu phát triển nền kinh tế tri thức. Số lượng nhân lực còn ít, cơ cấu chưa đồng bộ và năng lực thực tiễn chưa tương xứng với bằng cấp. Nhân lực có trình độ, tay nghề cao chưa nhiều và ngày càng thiếu những cán bộ đầu đànlàm nòng cốt đào tạo nhân lực trẻ. Kiến thức hội nhập, ngoại ngữ, tin học; năng lực sáng tạo, lãnh đạo, quản lý, quản trị và kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế chưa tương ứng với yêu cầu phát triển của Ngành. Một bộ phận nhỏ chưa tích cực tự học, còn ngại học, kết quả làm việc không cao. Nhiều lĩnh vực chuyên môn sâu còn thiếu nhiều nhân lực. Đang thiếu nhiều cán bộ quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp, quản trị kinh doanh, chuyên gia hoạch định chính sách, nghiên cứu chiến lược phát triển Ngành; đặc biệt thiếu chuyên gia đầu ngành giỏi kỹ thuật, nghiệp vụ du lịch. Chất lượng nhân lực quản lý ở địa phương còn nhiều bất cập; nhân lực thuộc các ngành nghề kinh doanh mới, doanh nghiệp mới chưa được đào tạo đầy đủ và bài bản. Bên cạnh sự mất cân đối và thiếu cán bộ có chuyên môn giỏi ở nhiều lĩnh vực, sự mất cân đối theo vùng, miền cũng là vấn đề lớn.

Ngoài ưu điểm, hạn chế chung nêu trên, nhân lực khối quản lý nhà nước, sự nghiệp và kinh doanh có những ưu điểm và hạn chế riêng.

Nhân lực khối quản lý nhà nước và sự nghiệp du lịch đã phát huy được năng lực, sử dụng kiến thức được đào tạo và kinh nghiệm tích luỹ trong quá trình công tác vào nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phát triển du lịch trên thế giới và trong nước để hoạch định chính sách, xây dựng hoặc góp ý xây dựng, tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; văn bản quy phạm pháp luật; chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển ngành, lĩnh vực; quy hoạch vùng, trung tâm, quy hoạch phát triển du lịch các địa phương; kế hoạch, đề án và chương trình hành động quốc gia về du lịch đạt hiệu quả. Nghiên cứu, phát hiện và đề xuất khá kịp thời với Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và hệ thống chính trị thông qua các đề án, đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, cấp tỉnh và các biện pháp tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh phát triển du lịch, nhất là vào những thời điểm cần thiết và khó khăn.

Mặc dù vậy, số cán bộ làm việc có hiệu quả cao và say mê, tận tụy với công việc chưa nhiều, thiếu những công chức, viên chức giỏi. Không ít cán bộ trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, quản lý hạn chế, việc cập nhật thông tin lý luận và thực tiễn chưa kịp thời nên đuối tầm và chưa gắn bó thường xuyên với cơ sở. Một số chưa mạnh dạn trong phản biện xã hội, thiếu tinh thần hợp tác và phối hợp. Có hiện tượng công chức, viên chức giỏi bỏ ra làm ở doanh nghiệp; bị thu hút hoặc bỏ đi tìm việc ở địa phương có điều kiện kinh tế thuận lợi hơn hoặc các trung tâm đô thị lớn, tạo thêm sự thiếu hụt về nhân lực trình độ cao cho địa phương còn khó khăn.

Nhân lực khối kinh doanh du lịch cần cù, năng động; từng bước được đào tạo và tự đào tạo nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học và kiến thức pháp luật quốc tế để kinh doanh, hội nhập; thích ứng nhanh với cơ chế mới, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao hiệu quả làm việc; gắn bó với doanh nghiệp, đóng góp tích cực trong xây dựng hình ảnh, thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Nhưng một bộ phận nhân lực còn ít kinh nghiệm, năng lực hạn chế, kinh doanh kém hiệu quả. Không ít người chưa quán triệt đầy đủ và thấu suốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của Ngành, nặng về kinh doanh đơn thuần, đôi khi còn sơ hở, mất cảnh giác trước đối tác nước ngoài, gây những hậu quả đáng tiếc; chưa khai thác mang tính bền vững những lợi thế của đất nước về du lịch để nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng văn hóa doanh nghiệp; một số có biểu hiện lãng phí. Nhân lực du lịch trong doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau có độ chênh trình độ kỹ năng khá lớn. Nhân lực trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài thường được đào tạo bài bản, trình độ chuyên môn nghiệp vụ hầu hết đạt tiêu chuẩn quốc tế, trình độ ngoại ngữ cũng đáp ứng yêu cầu của công việc. Nhân lực trong các doanh nghiệp nhà nước, nhìn chung cũng đã được đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ, tuy nhiên trình độ ngoại ngữ còn rất hạn chế. Vấn đề cần quan tâm đặc biệt là trình độ nghiệp vụ của nhân lực thuộc các doanh nghiệp tư nhân, có nơi đến 80% nhân lực chưa qua đào tạo chuyên sâu về du lịch.

2.3. Đánh giá tổng quan mặt mạnh, hạn chế, cơ hội và thách thức đối với phát triển nhân lực du lịch Việt Nam

2.3.1. Những mặt mạnh

1) Đảng và Nhà nước xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu, được thể chế hóa trong Luật Giáo dục, Luật Dạy nghề và các chính sách ưu tiên, khuyến khích, hỗ trợ phát triển nhân lực nói chung và nhân lực du lịch nói riêng. Luật Du lịch, các chính sách, chương trình, đề án phát triển du lịch đều coi phát triển nhân lực du lịch là một trong những trọng tâm ưu tiên. Các ngành, các cấp đã từng bước nhận thức đúng mức về vai trò của nhân lực trongquản lý phát triển du lịch vàlà yếu tố then chốt quyết định chất lượng dịch vụ du lịch.

2) Thị trường lao động mới nổi với nguồn cung lao động dồi dào là điều kiện thuận lợi để những năm qua ngành Du lịch đã xây dựng được lực lượng lao động đông đảo với độ tuổi nghề trẻ, cần cù, chịu khó, năng động, ham học hỏi, thông minh, khéo léo, ứng xử linh hoạt trước các biến động của thị trường và yêu cầu hội nhập. Thời gian qua, nhân lực du lịch được đào tạo từ nhiều nguồn trong hệ thống giáo dục đặc trưng của cơ chế bao cấp trước đây đã nhanh chóng, linh hoạt thích ứng với cơ chế thị trường, hội nhập và cạnh tranh.

3) Mạng lưới giáo dục, đào tạo du lịch và liên quan từ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng đến đại học và sau đại học được hình thành và nhanh chóng khẳng định vai trò cung cấp nhân lực được đào tạo chuyên sâu về du lịch để từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực du lịch ở từng thể loại. Hệ thống cơ sở đào tạo được tăng cường cả về số lượng và năng lực đào tạo. Tỷ lệ nhân lực được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn du lịch ngày càng cao; chất lượng đào tạo được cải thiện thể hiện ở tỷ lệ tìm được việc làm đúng chuyên ngành sau tốt nghiệp ngày càng cao.

4) Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, đặc biệt là đào tạo kỹ năng nghề tại các cơ sở đào tạo chuyên về du lịch hoàn thiện dần. Hệ thống chương trình khung các nghề du lịch chính ở trình độ cao đẳng trở xuống được xây dựng và áp dụng thống nhất; 13 tiêu chuẩn kỹ năng nghề VTOS được ban hành và ứng dụng; hệ thống thẩm định và chứng nhận VTCB được thiết lập sẽ đẩy nhanh quá trình đào tạo, truyền nghề và chứng nhận nghề du lịch.

5) Lực lượng giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch ngày càng tăng về số lượng và tăng cường về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và kiến thức, kỹ năng hội nhập. Chương trình liên kết trong nước và quốc tế, các chương trình bồi dưỡng, chương trình phát triển đào tạo viên và các diễn đàn trao đổi chuyên môn đã liên tục tiến hành để xây dựng một thế hệ giáo viên, giảng viên, đào tạo viên du lịch lớn mạnh cả về lượng và chất.

6) Sự năng động và đa dạng hóa các hình thức đào tạo, xã hội hóa việc huy động nhiều nguồn lực cho đào tạo, bồi dưỡng du lịch, đặc biệt là đào tạo tại chỗ tại doanh nghiệp, tự đào tạo và truyền nghề thông qua đội ngũ giám sát, đào tạo viên đã nhanh khắc phục đáng kể sự hẫng hụt, yếu kém về kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp ở một số lĩnh vực và khu du lịch, điểm du lịch.

7) Kinh nghiệm phát triển nhân lực trong nước và quốc tế được chuyển giao và tiếp thu có chọn lọc, nhanh chóng thông qua nhiều dự án phát triển nhân lực và dự án phát triển du lịch, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài; khả năng tiếp nhận chuyển giao kỹ thuật, cộng nghệ, kiến thức của người Việt Nam nói chung và nhân lực du lịch nói riêng được đánh giá là điểm mạnh trong phát triển nhân lực du lịch những năm qua.

2.3.2. Những hạn chế

1) Một số chính sách của Nhà nước chưa thực sự phù hợp yêu cầu thực tiễn, chưa thực sự khuyến khích giáo dục đào tạo, đặc biệt trong đào tạo du lịch, như quy định về học phí đối với đào tạo nghề, chưa có mã ngành đào tạo du lịch riêng…; sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong chính sách phát triển nhân lực du lịch chưa hiệu quả.

2) Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục nói chung và phát triển nhân lực du lịch nói riêng chưa được cụ thể hóa thành chiến lược, quy hoạch, chương trình cụ thể; tư duy, nhận thức và hành động trong quản lý và tác nghiệp còn nhiều hạn chế, bật cập và non yếu trong cơ chế thị trường; nguồn lực đầu tư cho các chương trình, hoạt động phát triển nhân lực còn thiếu thốn, mạnh mún và cơ quan cấp kinh phí thiếu mạnh dạn, lưỡng lự.

3) Hệ thống trường, lớp, nhất là hệ chuyên nghiệp, mở ồ ạt trong khi sự chuẩn bị về nguồn lực con người (thầy), nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, trang thiết bị cơ sở vật chất sơ sài, tùy tiện, ảnh hưởng chất lượng đào tạo và tinh thần người học. Nhiều cơ sở đào tạo vẫn dạy “chay”, lực lượng giảng viên cơ hữu quá mỏng, chương trình chắp vá ít hàm lượng thực tế, ít yếu tố mới; thiên về việc chạy theo số lượng để tăng thu, chạy theo thành thích, hình thức và thiếu nghiêm túc trong kiểm tra, đánh giá kết quả đào tạo; sự phối hợp chia sẻ trách nhiệm giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo thực hành còn yếu dẫn tới chất lượng đào tạo hạn chế.

4) Lực lượng giáo viên, giảng viên từ nhiều nguồn khác nhau; một bộ phận lớn trưởng thành từ hệ thống giáo dục trong cơ chế cũ, nếu học ở nước ngoài chủ yếu từ các nước Đông Âu cũ; một bộ phận mới được đào tạo từ các nước có du lịch phát triển những năm qua thì còn trẻ và ít kinh nghiệm. Nhìn chung giáo viên, giảng viên du lịch rất đa dạng, thiếu chuyên môn và phương pháp giảng dạy; yếu về ngoại ngữ và phương pháp sư phạm hiện đại trong khi du lịch yêu cầu cao về kiến thức, kỹ năng hội nhập.

5) Tỷ lệ nhân lực du lịch được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu du lịch còn tương đối thấp (dưới 45%), trong khi chất lượng đào tạo du lịch còn hạn chế và phần đông là lao động phổ thông và qua truyền nghề, huấn luyện tại chỗ. Vì vậy, mặc dù có tinh thần ham học hỏi, năng động và linh hoạt ứng phó, thích nghi trong công việc, nhưng tính chuyên nghiệp của nhân lực ngành Du lịch còn thấp so với yêu cầu hội nhập và cạnh tranh của ngành dịch vụ hướng ngoại. Tính kỷ luật trong lao động của người Việt Nam nói chung, nhân lực du lịch nói riêng còn kém; tuy nhiệt tình, cởi mở, hiếu khách nhưng tùy tiện và thiếu nguyên tắc ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu suất công việc.

6) Nhân lực du lịch còn non yếu trong cơ chế thị trường cả trong nhận thức, tư duy và hành động. Việc đầu tư cho đào tạo của người học chưa thực sự hướng đích nghề nghiệp mà vẫn còn nặng về bằng cấp. Mức độ yêu nghề, gắn bó với nghề thấp mà chủ yếu xác định du lịch là nghề kiếm sống nhanh nhất, dễ nhất và tìm cách tận thu, tăng thu nhập trong quá trình phục vụ nhờ những mánh khóe, chộp dật, bưng bít thông tin… mà không chuyên tâm học tập.

7) Nguồn lực đầu tư cho phát triển nhân lực ngành Du lịch còn hạn chế, đặc biệt ở những khu du lịch mới ở vùng sâu, vùng xa chưa có cơ sở đào tạo du lịch; trình độ mức sống dân cư thấp, rất khó khăn trong tổ chức đào tạo, huấn luyện nghề du lịch hoặc tuyển sinh vào các cơ sở đào tạo kể cả theo hệ cử tuyển. Tỷ lệ học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp trở về địa phương làm việc thấp trong khi các vùng sâu, vùng xa, các khu du lịch mới rất thiếu nhân lực được đào tạo.

2.3.3. Những cơ hội

1) Ngành Du lịch tiếp tục tăng trưởng nhanh và bền vững theo định hướng chiến lược trong thời gian tới cùng với xu hướng tăng trưởng du lịch của khu vực. Du lịch tăng trưởng kéo theo nhu cầu nhân lực du lịch lớn, vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với phát triển nhân lực du lịch.

2) Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm tới giáo dục nói chung và phát triển nhân lực du lịch nói riêng, thể hiện trong các chính sách, đặc biệt là việc tập trung chỉ đạo xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực du lịch, mở ra cơ hội triển khai một cách bài bản, hệ thống.

3) Kinh nghiệm 30 năm đổi mới và công tác phát triển nhân lực du lịch thời gian qua là bài học quý báu cho giai đoạn tới; sự hỗ trợ của quốc tế về tài chính và kinh nghiệm tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển nhân lực du lịch. Thành tựu phát triển những năm qua của ngành Du lịch vừa có thêm kinh nghiệm vừa tăng cường nguồn lực vật chất, tài chính cho công tác phát triển nhân lực nâng tầm cao mới với tính chuyên nghiệp cao hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu hội nhập và cạnh tranh.

4) Sự đầu tư nhiều mặt của Nhà nước và nguồn lực xã hội hóa những năm gần đây trong việc mở rộng mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch, tăng cường năng lực cả phần cứng và phần mềm sẽ phát huy hiệu quả những năm tiếp theo; thế hệ giáo viên, giảng viên mới được hình thành đại diện cho thế hệ hiện đại với kiến thức, kỹ năng cập nhật, hội nhập và ngang tầm khu vực là cơ hội tốt để nâng cao chất lượng đào tạo du lịch.

5) Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và toàn diện, kinh nghiệm hội nhập và cạnh tranh được củng cố, cơ chế thị trường ngày càng phát huy tác dụng cùng với sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài kèm theo du nhập công nghệ và thị trường trong du lịch là cơ hội cho nhân lực du lịch phát triển và trưởng thành. Cơ hội hợp tác quốc tế và năng lực hội nhập của các cơ sở đào tạo du lịch cũng sẽ có có cơ hội nâng cao.

2.3.4. Những thách thức

1) Du lịch tăng trưởng tạo thêm nhiều việc làm và nhu cầu nhân lực ngày càng tăng, đòi hỏi nhân lực có trình độ kiến thức và kỹ năng cao. Nhu cầu du lịch ngày càng đa dạng, đòi hỏi chất lượng sản phẩm, dịch vụ rất khắt khe đặt ra yêu cầu cao đối với nhân lực du lịch cần đào tạo. Nhiều kỹ năng hiếm, ngôn ngữ hiếm yêu cầu cần đáp ứng trong thời gian ngắn hạn là rất khó khăn, hoặc không thể được, dẫn tới hiện tượng giành giật nhân lực khi có khu du lịch mới, sản phẩm mới, thị trường mới.

2) Thu nhập của nghề du lịch có xu hướng giảm, hình ảnh nghề nghiệp có xu hướng mai một, không còn ở vị trí cao (danh giá) như giai đoạn đầu hội nhập nên kém hấp dẫn người học, khó thu hút được đầu vào; mức độ tận tâm, yêu nghề sẽ giảm; nguy cơ chuyển nghề, chuyển khỏi ngành Du lịch xu hướng tăng.

3) Đào tạo thực hành nghề du lịch đòi hỏi công phu, hao tốn về nguyên vật liệu, thời gian, không gian dẫn tới chi phí đào tạo cao, chất lượng đào tạo khó đảm bảo.

4) Sự thiếu hụt giáo viên, giảng viên giỏi cả trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn và phương pháp giảng dạy hiện đại tiếp tục là thách thức lớn trong việc nâng cao chất lượng đào tạo du lịch trong các cơ sở đào tạo du lịch.

5) Những xu hướng du lịch mới, du lịch ra nước ngoài và đầu tư du lịch ra nước ngoài tăng lên đòi hỏi hệ thống cơ sở đào tạo du lịch phải thích ứng và đáp ứng nhân lực trong ngắn hạn là rất khó khăn.

6) Nhân lực được đào tạo du lịch tại các vùng sâu, vùng xa tiếp tục thiếu, yếu sẽ là thách thức lớn khi phát triển các khu du lịch mới; việc đào tạo cho dân tộc thiểu số gặp nhiều trở ngại về ngôn ngữ, văn hóa.

7) Môi trường kinh doanh không lành mạnh dẫn tới sự khác biệt giữa nội dung đào tạo với việc áp dụng trong thực tế từ đó gây trở ngại sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong việc đào tạo thực hành; chuẩn mực kiến thức, kỹ năng cần đào tạo và sử dụng trong thực tế khác biệt nhau dẫn tới chất lượng nhân lực khó đảm bảo.

2.4. Nâng cao chất lượng và tiêu chuẩn hóa nhân lực du lịch Việt Nam

Năm 2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN đã chính thức ra đời với đặc trưng chung là thừa nhận lẫn nhau về văn bằng của người lao động, trong đó có nghề du lịch. Việt Nam hội nhập với Cộng đồng kinh tế ASEAN nên sẽ thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP). Đây được coi là lộ trình để phát triển và triển khai thực hiện nghề du lịch ở cấp quốc gia. Việc triển khai Thỏa thuận này ở nước ta sẽ mang lại nhiều lợi ích. Nhưng nếu không tận dụng tốt cơ hội, không chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh thì du lịch Việt Nam sẽ thua trên chính sân nhà.

Chiến lược Du lịch ASEAN (ATSP) giai đoạn 2016-2025 cũng sẽ sớm được xây dựng, trong đó tập trung xây dựng ASEAN trở thành một điểm đến du lịch chất lượng, bền vững, có trách nhiệm và phát triển toàn diện. Năm 2015 cũng đánh đấu bước phát triển mới trong hợp tác phát triển du lịch ASEAN bởi Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về nghề du lịch sẽ chính thức có hiệu lực. Đây là nền tảng để tăng cường chuyển dịch lao động trong ngành du lịch giữa các nước ASEAN, cân bằng cung cầu đối với các nghề du lịch. Điều này có nghĩa những người lao động của Việt Nam có thể sang làm việc tại các nước ASEAN và ngược lại, người lao động trong khối ASEAN có thể sang làm việc tại Việt Nam.

Hiện nay, ngành du lịch ASEAN đã xây dựng tiêu chuẩn nghề chung cho 6 nghiệp vụ lễ tân, buồng, bếp, dịch vụ ăn uống, đại lý du lịch và điều hành tour với tổng số 32 chức danh nghề, không bao gồm nghề hướng dẫn viên du lịch. Giáo trình đào tạo nghề chung cũng đã được xây dựng. Một số nước như Indonesia, Malaysia, Thái Lan… đã có cơ quan quốc gia cấp chứng chỉ nghiệp vụ du lịch cho người lao động. Thỏa thuận chung sẽ được thực hiện và khi đó người lao động ở 32 chức danh nghề nêu trên sẽ có cơ hội làm việc tốt hơn. Việc triển khai các Thỏa thuận chung này mang lại rất nhiều lợi ích, Việt Nam có thể áp dụng được ngay các tiêu chuẩn chung của ASEAN, tiết kiệm được rất nhiều chi phí xây dựng các bộ tiêu chuẩn. Mặt khác, các doanh nghiệp và người lao động sẽ có điều kiện phát triển năng lực, được thừa nhận trình độ chuyên môn. Đối với các doanh nghiệp, họ sẽ có bộ tiêu chuẩn để áp dụng đào tạo tại chỗ, người lao động đáp ứng được kỹ năng nghề trong bộ tiêu chuẩn chung ASEAN sẽ đáp ứng hơn tốt nhu cầu của khách du lịch quốc tế và trong nước. Doanh nghiệp thêm nhiều cơ hội tuyển dụng trong ASEAN. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch sẽ tăng lên và chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp cũng sẽ được nâng cao…

Thỏa thuận về nghề du lịch ASEAN chính thức có hiệu lực, sẽ có nhiều lao động trong khối ASEAN đến Việt Nam làm việc. Nếu lao động trong nước không nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành thì họ sẽ thua ngay trên chính sân nhà, hậu quả là sẽ nhiều người mất việc làm. Mặt khác, các doanh nghiệp du lịch ASEAN sẽ nhiều cơ hội thu hút lao động có tay nghề của Việt Nam. Điều này cũng có nghĩa là nếu doanh nghiệp du lịch trong nước không đổi mới, không phát triển để giữ chân lao động có tay nghề, thì sẽ mất đi nguồn chất xám lao động có kỹ năng nghề trong nước; chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng sẽ bị suy giảm.

Tiêu chuẩn VTOS

Trong năm 2015, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xác định là năm du lịch phải tăng tốc để bước vào giai đoạn hội nhập khi mà Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức hình thành và thừa nhận lẫn nhau trong hệ thống tiêu chuẩn nghề của du lịch. Thỏa thuận này được các nước trong cộng đồng ASEAN rất quan tâm và nhiều nước đã đi tiên phong. Trong đó, nhân lực là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển của mọi ngành nghề, đặc biệt là ngành du lịch. Các nước ASEAN nói chung hay Việt Nam nói riêng coi việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo khung trình độ đã được thừa nhận là điều kiện tiên quyết để xây dựng ngành du lịch hội nhập quốc tế.

Nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành Du lịch tại Việt Nam, Chương trình Phát triển năng lực Du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội, do Liên minh châu Âu tài trợ (Dự án EU) đã sửa đổi bộ Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam phiên bản cũ (VTOS). Bộ tiêu chuẩn VTOS phiên bản mới được phát triển mở rộng bao gồm cả các lĩnh vực được xác định là quan trọng đối với Du lịch Việt Nam. Toàn bộ các tiêu chuẩn này đã được đăng tải trên trang thông tin điện tử http://vtos.esrt.vn/ bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh; giúp người lao động, người sử dụng lao động, giáo viên và học sinh các trường du lịch tiếp cận, áp dụng và thực hiện theo tiêu chuẩn VTOS nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cũng như hiệu quả đào tạo nghề du lịch một cách thống nhất. Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam sửa đổi ngoài việc kế thừa các nội dung từ phiên bản trước đã được phát triển phù hợp với các quy định của Việt Nam cũng như được chuẩn hóa, tương thích với các tiêu chuẩn nghề quốc tế, tiêu chuẩn ASEAN. Tiêu chuẩn VTOS sẽ góp phần nâng cao chất lượng của ngành du lịch thông qua việc triển khai thực hiện, định hướng công tác đào tạo, hội nhập khu vực và quốc tế.

Tiêu chuẩn VTOS là thước đo để đánh giá kỹ năng nghề của nhân viên, người lao động thông qua các kỳ thẩm định VTOS được Hội đồng VTCB tiến hành trên toàn quốc. Tiêu chuẩn VTOS góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch trong ngành Du lịch Việt Nam. Hiện nay, tiêu chuẩn VTOS đã được áp dụng rộng rãi trong việc triển khai đào tạo nhân viên tại doanh nghiệp cũng như tập huấn, phổ biến, đào tạo các đào tạo viên là các giảng viên, giáo viên trong các cơ sở đào tạo/dạy nghề trên toàn quốc. Hiện nay, Hội đồng VTCB với gần 3000 Đào tạo viên, 160 Thẩm đinh viên, 16 Trung tâm thẩm định và 57 Trung tâm đánh giá nghề du lịch, 1 bộ Tiêu chuẩn 10 nghề du lịch (VTOS) đã được điều chỉnh, hài hòa với Tiêu chuẩn ASEAN về du lịch.

Bộ tiêu chuẩn phiên bản mới đã cập nhật thêm một số tiêu chuẩn nghề mới, đồng thời điều chỉnh, bổ sung, kết cấu lại dựa trên bộ tiêu chuẩn VTOS cũ theo các mô-đun và nhóm các đơn vị năng lực. Việc điều chỉnh này đặc biệt phù hợp với các cơ sở dạy nghề du lịch và mang đến khả năng tiếp cận cao hơn cho cả người dạy và người học. Tiêu chuẩn VTOS được sử dụng như một kênh tham chiếu trong việc điều chỉnh chương trình đào tạo/dạy nghề gắn việc học tập lý thuyết với thực hành kỹ năng cũng như rèn luyện thái độ đúng đắn trong công việc của người làm du lịch.

Tiêu chuẩn VTOS phiên bản mới (2013) cung cấp danh mục hơn 65 chứng chỉ đề xuất cho các đối tượng từ nhân viên tập sự bậc 1 đến quản lý cấp cao bậc 5. Các chứng chỉ này bao quát tất cả nghề quan trọng thuộc lĩnh vực lữ hành và khách sạn. Với hệ thống chứng nhận mới, người lao động đều có cơ hội được ghi nhận các kỹ năng và năng lực làm việc và được chứng nhận trong quá trình phát triển sự nghiệp của họ. Bộ tiêu chuẩn VTOS 2013 được thiết kế và xây dựng dựa trên cách tiếp cận theo yêu cầu “năng lực” chứ không như trước đây theo cách tiếp cận theo yên cầu “kỹ năng“. Do đó, tiêu chuẩn Bộ tiêu chuẩn VTOS 2013 được xây dựng trên cơ sở những yêu cầu “năng lực” nền tảng có giá trị cốt lõi, đồng thời hướng đến tính “mở“, “linh hoạt“, phù hợp cho việc áp dụng vào từng đối tượng cụ thể. Bộ tiêu chuẩn VTOS 2013 được xây dựng dựa trên sáu vị trí việc làm cụ thể trong ngành Du lịch: 1) Lễ tân; 2) Phục vụ buồng; 3) Phục vụ nhà hàng; 4) Chế biến món ăn; 5) Điều hành du lịch và đại lý lữ hành; 6) Hướng dẫn du lịch. Ngoài ra, bộ tiêu chuẩn VTOS 2013 cũng được xây dựng mở rộng cho bố vị trí việc làm chuyên biệt trong hoạt động du lịch: 1) Thuyết minh du lịch; 2) Phục vụ trên tàu thủy du lịch; 3) Quản lý khách sạn; 4) Vận hành cơ sở lưu trú du lịch.

Tiêu chuẩn VTOS 2013 được thiết kế gồm 5 bậc, bao gồm 241 đơn vị năng lực, 45 chứng chỉ đề xuất. Sự đổi mới, ưu việt của Tiêu chuẩn VTOS 2013 là tập trung vào các đơn vị năng lực được tiêu chuẩn hóa dùng để đánh giá năng lực của người lao động với 3 cấu phần: kỹ năng, kiến thức, thái độ. Đối tượng sử dụng Tiêu chuẩn VTOS 2013 gồm 4 nhóm: 1) Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch; 2) Các cơ sở đào tạo/dạy nghề về du lịch; 3) Doanh nghiệp du lịch và 4) Người lao động trực tiếp trong các doanh nghiệp du lịch.

Giải pháp áp dụng tiêu chuẩn VTOS

Năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập với một trong những đặc trưng là thừa nhận lẫn nhau về văn bằng của người lao động trong cộng đồng. Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) được xây dựng nhằm cho phép chuyển dịch việc làm của người lao động du lịch lành nghề giữa các quốc gia thành viên và để công nhận các kỹ năng và văn bằng của người lao động du lịch từ các quốc gia thành viên khác trong ASEAN. Điều này có nghĩa là những người lao động du lịch có trình độ có thể ứng tuyển công việc ở các quốc gia thành viên ASEAN khác và các công ty du lịch có thể tìm kiếm nhân viên có trình độ từ Cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân sự của công ty. Sách hướng dẫn này được phát hành làm tài liệu tham khảo cần thiết cho người lao động, người sử dụng lao động và các tổ chức đào tạo du lịch nhằm chuẩn bị cho việc công bố Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Các cơ sở giáo dục và đào tạo sẽ phải rà soát chương trình đào tạo và văn bằng để đảm bảo rằng chúng phù hợp với hoặc liên kết với chương trình du lịch chung ASEAN nhằm cấp ra những văn bằng thích đáng cho sinh viên hoặc người thực tập. Bên cạnh đó, cần xem xét xem các văn bằng hoặc các chương trình đào tạo hiện tại phải điều chỉnh hoặc thay đổi như thế nào nhằm đáp ứng các yêu cầu của ASEAN về thừa nhận văn bằng du lịch lẫn nhau.

Xuất phát từ yêu cầu thực tế nêu trên, tại Hội thảo này, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị đối với các cơ sở đào tạo/dạy nghề du lịch triển khai áp dụng Bộ tiêu chuẩn VTOS 2013 trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập quốc tế như sau:

1) Thiết kế chương trình đào tạo/dạy nghề tiếp cận theo chuẩn đầu ra – năng lực cốt lõi của mỗi vị trí việc làm gắn với thực tế thị trường lao động. Đồng thời, hướng đến tính “mở“, “linh hoạt“, phù hợp cho việc áp dụng vào từng đối tượng, địa chỉ cụ thể.

2) Biên soạn chương trình môn học, bài giảng, giáo trình các học phần/môn học/mô-đun chuyên môn theo hướng tích hợp giữa lý thuyết và thực hành. Trong đó, thời lượng dành cho phần thực hành chiếm tỷ lệ từ 70-75% tổng thời gian học tập.

3) Thay đổi phương pháp giảng dạy của giảng viên/giáo viên, học tập của học sinh/sinh viên theo hướng tích cực, chủ động. Nội dung bài giảng của giảng viên/giáo viên phải được thiết kế mang tính trực quan, sinh động và cụ thể với các mẫu, phiếu, biểu, hình ảnh, phim… gắn với thực tế nghề nghiệp, gắn với doanh nghiệp.

4) Thay đổi phương pháp kiểm tra, đánh giá trên cơ sở đánh giá “năng lực“, bao gồm cả 3 yêu cầu: kỹ năng, kiến thức, thái độ. Cuối kỳ, thay vì thi viết, học sinh/sinh viên được thi thực hành và vấn đáp để kiểm tra các đơn vị “năng lực” đã được học. Tập trung chủ yếu vào việc đánh giá “năng lực” chuyên môn nghiệp vụ và giao tiếp ngoại ngữ. Đây chính là cách đánh giá rất sátvới thực lực học của học sinh/sinh viên.

5) Gắn kết giữa cơ sở đào tạo/dạy nghề với doanh nghiệp du lịch trong quá trình đào tạo, thực hành, thực tập của học sinh/sinh viên để tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng lao động sau tốt nghiệp.

Tuy nhiên, việc áp dụng Bộ tiêu chuẩn VTOS 2013 trong giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn do số đơn vị “năng lực” nhiều, trong khi thời lượng giảng dạy cho học phần/môn học/mô-đun chuyên môn lại hạn chế (đặc biết đối với các cơ sở giáo dục đại học). Việc điều chỉnh chương trình để tăng thời lượng các học phần/môn học/mô-đun chuyên môn cũng gặp khó khăn do những quy định “cứng nhắc” bởi sự ràng buộc của chương trình khung, của yếu tố “tâm lý” giáo viên/giảng viên các bộ môn khác nhau (đặc biết đối với các cơ sở đào tạo/dạy nghề công lập). Bên cạnh đó, là sự đầu tư cho trang thiết bị, dụng cụ thực hành, phương tiện nghe – nhìn, hệ thống học liệu, phòng học đa năng còn rất hạn chế để có thể áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực đối với nhiều cơ sở đào tạo/dạy nghề.

Kết luận

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng với sự phát triển kinh tế thế giới. Hiện nay, du lịch chiếm vị trí hàng đầu trong thương mại toàn cầu, được coi là ngành xuất khẩu và tạo việc làm lớn nhất thế giới. Theo Tổ chức Du lịch thế giới, trong thế kỷ XXI, du lịch trở thành hoạt động kinh tế quan trọng nhất trên phạm vi toàn cầu. Với vai trò ngày càng tăng của ngành Du lịch trong nền kinh tế thế giới, ngày càng nhiều quốc gia coi trọng phát triển du lịch, coi du lịch là động lực chính để phát triển kinh tế-xã hội.

Trước bối cảnh Cộng đồng kinh tế ASEAN đã chính thức ra đời vào cuối năm 2015, ngành Du lịch Việt Nam đang gặp những thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó có yếu tố về nhân lực. Nhân lực ngành Du lịch có vai trò quyết định không chỉ cho riêng sự phát triển du lịch mà còn góp phần không nhỏ vào việc phát triển kinh tế của đất nước. Nhiều năm qua, ngành Du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế cho phát triển nhân lực. Công tác phát triển nhân lực ngành Du lịch mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết.

Trong thời gian qua, một số cơ sở đào tạo đại học áp dụng tiêu chuẩn VTOS 2013 trong giảng dạy đã bước đầu thu được những kết quả tích cực. Giảng viên và sinh viên đều hào hứng, tích cực tham gia giảng dạy và học tập. Người học được chủ động phát huy tự chủ, được có cơ hội thực hành, cọ sát thực tế nhiều hơn, các kỹ năng thiết thực được chú trọng. Với mục tiêu phát triển nhân lực Du lịch có hệ thống; tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và hợp lý hóa cơ cấu nhân lực ngành Du lịch; nâng cao năng lực và chất lượng của hệ thống đào tạo du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực; và nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch và nhân lực ngành Du lịch; tạo động lực và lợi thế thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Quyết định số 221/2005/QĐ-TTg ngày 09/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng Chương trình Quốc gia phát triển nhân lực đến năm 2020.
Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 24/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030”.
Quyết định số 1060/QĐ-BVHTTDL ngày 29/3/2011 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Đề án “Chiến lược phát triển nhân lực văn hóa, thể thao và du lịch 2011-2020”.
Quyết định số 3066/QĐ-BVHTTDL ngày 29/9/2011 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phê duyệt Quy hoạch “Phát triển nhân lực ngành du lịch 2011-2020”.
Quyết định số 2473/2011/QĐ-TTg ngày 30/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030“.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09/6/2014 của Chính phủ về ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 08/12/2014 của Chính phủ về một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới.
Thông báo số 263/TB-VPCP ngày 30/8/2016 của Văn phòng Chính phủ về Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị toàn quốc về phát triển du lịch.
Hệ thống tiêu chuẩn VTOS 2013, Chương trình Phát triển năng lực Du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội (Dự án EU), Tổng cục Du lịch.

NCS. Đoàn Mạnh Cương, Vụ Đào tạo, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch